Nhiều người nói chỉ cần ăn hàu, hải sản, uống kẽm hay vitamin C là đủ để cải thiện được chất lượng tinh trùng. Thực tế là gì?

Trong dân gian, những quý ông khó có con thường được khuyên là nên ăn nhiều hàu, hải sản bởi vì chúng có hàm lượng kẽm và selen khá cao. Sau này nhờ sự tiến bộ của khoa học, người ta còn biết thêm là cần bổ sung kẽm, vitamin C. Thế nhưng như thế liệu đã đủ để tăng cơ hội có con của quý ông chưa? 

Cơ hội có con theo cách tự nhiên thường đến với những người có cơ thể khỏe mạnh, sức khỏe tốt về thể chất lẫn tinh thần. Đó là điều kiện để tạo ra tinh trùng khỏe mạnh.

Trong cuộc sống có rất nhiều yếu tố tác động làm giảm chất lượng tinh trùng, như: bệnh tật, tình trạng viêm nhiễm cơ quan sinh dục, stress, lối sống không lành mạnh…Xét sâu về cơ chế sinh học phân tử là sự hiện diện các gốc oxy tự do (ROS) trong cơ thể. Khi nồng độ ROS trong tế bào, trong cơ thể tăng cao hơn mức bình thường, làm mất cân bằng với các yếu tố chống oxy hóa sẽ làm cho tinh trùng bị tổn thương dưới nhiều hình thức: dị dạng, giảm số lượng, kém di dộng, di dộng bất thường,  tinh trùng trưởng thành không hoàn chỉnh,… Tất cả những bất thường này được gọi chung là tinh trùng kém chất lượng. Và stress oxy hóa do ROS là bất thường thường gặp ở nhóm người vô sinh tự phát.

Những hình thái bất thường của tinh trùng như đầu to, đuôi ngắn, đuôi quá dài, đuôi đôi, đuôi bị cong, 2 đầu, … sẽ ảnh hưởng đến khả năng di chuyển của chúng, hay nói nôm na là “bơi không tốt” nên giảm khả năng thụ thai. Những tinh trùng bất thường đa số là những tinh trùng chưa trưởng thành hay có chức năng chậm chạp. Ngoài ra hình dạng bất thường làm tăng nguy cơ khuyết tật bẩm sinh và các vấn đề sức khỏe của thai nhi.

Stress oxy hóa gây kích hoạt phản ứng lipid peroxide, và hậu quả là tổn thương cấu trúc tế bào (như: biến đổi các nucleotit, phá vỡ các cầu nối, nhiễm sắc thể xoắn bất thường, phân mảnh DNA,…), làm rối loạn chức năng tế bào, giảm khả năng sinh tồn và giảm khả năng di động của tinh trùng & là tiền đề của đột biến gen.

Trong tinh trùng có rất ít các enzyme chống oxy hóa & các enzyme này không thể ngăn ngừa sự tấn công của ROS lên màng tinh trùng ở phần cực đầu (acrosome) và đuôi. Nói cách khác các tế bào tinh trùng cần hệ thống bảo vệ chống oxy hóa từ bên ngoài (Sabeti và cộng sự,2016).

Để ngăn ngừa những tổn hại của tinh trùng do ROS, các nhà khoa học cho biết liệu pháp chất chống oxy hóa, hay các chất có thuộc tính chống oxy hóa có thể cải thiện chất lượng của tinh trùng.

Vitamin C là chất chống oxy hóa hiện diện ở dịch ngoại bào. Nó trung hòa các gốc tự do hydroxyl, superoxide và hydrogen peroxide và ngăn ngừa sự kết dính của tinh trùng.

Vitamin E là chất chống oxy hóa, hiện diện ở màng tế bào, có tác dụng trung hòa gốc tự do H2O2 và bảo vệ màng tế bào không bị lipid peroxide.

Nhiều nghiên cứu cho thấy liệu pháp vitamin C & E giúp cải thiện hình dạng và tính di động của tinh trùng, giảm tổn thương DNA bởi ROS. Sự phối hợp kẽm, vitamin C, vitamin E cũng giúp giảm mức ROS, tăng tỷ lệ có thai, giảm tỷ lệ phân mảnh DNA. Việc bổ sung đơn lẻ chất chống oxy hóa có thể tăng số lượng tinh trùng ở những người vô sinh, hiếm muộn nhưng không làm thay đổi chất lượng tinh trùng ở người có khả năng sinh sản bình thường. 

Selen là yếu tố then chốt trong quá trình chống oxy hóa và lão hóa của cơ thể và cũng là chất giải độc kỳ diệu cho cơ thể. Nó bắt giữ một số kim loại nặng có hại trong cơ thể và thải trừ ra ngoài. Ngoài ra selen còn có vai trò trong phục hồi cấu trúc di truyền, tham gia kích hoạt một số enzyme trong hệ thống miễn dịch.

Selen và Vitamin E là yếu tố cần thiết để tạo enzyme glutathione peroxidase cho quá trình tạo glutathione trong cơ thể. Glutathione là chất chống oxy hoá phổ biến nhất được tìm thấy trong cơ thể. Nó đóng một vai trò chủ chốt bảo vệ lipid, protein, và acid nucleic chống lại tác hại của các gốc tự do. Do đó selen được xem là chất chống oxy hóa đầu bảng của các chống oxy hóa mạnh để vô hiệu hóa các gốc tự do.

Coenzyme Q-10 (CoQ-10) ức chế sự hình thành H2O2 trong tinh dịch và dịch bào tương của tinh trùng, nghĩa là có tác dụng ngăn ngừa các phản ứng oxy hóa. CoQ-10 cũng liên quan đến quá trình sản xuất năng lượng cho tế bào hoạt động. 

Kẽm là nguyên tố vi lượng, có trong thành phần các enzyme superoxide, loại enzym chủ chốt chống oxy hóa. Cơ thể luôn cần được cung cấp đầy đủ Zn để duy trì mức độ hoạt động tối ưu của các enzyme này.

Hiện nay, có 2 chất L-Carnitine (LC) và acetyl-L-carnitine (ALC) đã và đang được các nhà khoa học đề cập đến rất nhiều về tác dụng cải thiện chất lượng tinh trùng của chúng.

L-Carnitine và acetyl-L-carnitine có nồng độ cao trong mào tinh, và tinh dịch sau khi xuất tinh. Hai chất này đóng vai trò chủ chốt trong quá trình chuyển hóa và trưởng thành của tinh trùng. Chúng ta đều biết mào tinh là nơi mà tinh trùng sau khi hoàn thành giai đoạn 2 của quá trình gián phân sẽ tiếp tục hoàn thiện khả năng di dộng vào giai đoạn cuối cùng của sự trưởng thành, đặc biệt kiểu di động tiến tới. Do đó, carnitin có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng tinh trùng, đặc biệt là về khả năng di dộng của chúng. Ngoài ra, carnitin còn có ảnh hưởng gián tiếp đến sự phát triển & trưởng thành của tinh trùng trong tinh hoàn thông qua việc kích hoạt tế bào sertoli hấp thu glucose. Việc bổ sung LC là một phương thức giúp tế bào sertoli tăng cung cấp năng lượng cần thiết cho các tế bào mầm của tinh trùng trưởng thành.

Carnitin cung cấp nguồn năng lượng sẵn có cho mọi hoạt động của tinh trùng thông qua các phản ứng beta oxy hóa các acid béo chuỗi dài mà carnitin vận chuyển vào ty thể. Carnitin cũng có thuộc tính chống oxy hóa chống lại các gốc ROS được tạo ra trong quá trình chuyển hóa của tế bào bằng cách loại bỏ các acetyl coenzyme A có hại, và ngăn cản các tác động của ROS lên các acid béo có trong thành phần của màng tế bào để giúp màng tế bào luôn ở trạng thái ổn định, từ đó làm tăng khả năng sống sót của tế bào. 

Mặt khác, ALC ức chế acid arachidonic kết hợp với phospholipid của màng tế bào. Acid arachidonic là nhân tố trọng yếu trong việc hình thành gốc oxy tự do (ROS) nếu nó tấn công các phospholipid của màng tế bào. Do đó ALC có vai trò then chốt trong cơ chế sữa chữa các hậu quả của ROS, là hàng rào bảo vệ thứ 2 sau các chất chống oxy hóa.

Có thể tóm lược vai trò của LC và ALC trên chất lượng của tinh trùng như sau: 

  • L-carnitin (LC) giúp tối ưu hóa mức năng lượng của tinh trùng, vận chuyển các gốc acyl độc hại ra khỏi ty thể 
  • Acetyl-L-carnitine (ALC) giúp duy trì tính ổn định của màng tế bào thông qua ức chế tác động của acid arachidonic lên phospholipid của màng tế bào

Có rất nhiều nghiên cứu đã chứng minh việc sử dụng LA và/hoặc ALC (ít nhất 2g LC và/hoặc 1g ALC mỗi ngày) sẽ giúp cải thiện rõ rệt tinh trùng về số lượng, tính di động, tinh trùng dị dạng ở những người đàn ông có tinh trùng ít, kém di dộng và dị dạng về hình thái. 

Một báo cáo nghiên cứu của Micic và cộng sự (2017) cho thấy sự phối hợp giữa L-carnitin, Acetyl-L-Carnitin, selen, kẽm, vitamin C, CoQ10 không những cải thiện được tính di dộng toàn bộ của tinh trùng, đặc biệt về kiểu di động tiến tới mà còn giảm được tỷ lệ phân mảnh DNA của tinh trùng. Điều này giúp cho những ông bố có thêm nhiều cơ hội có con tự nhiên cũng như tăng tỷ lệ thành công khi tiến hành thụ tinh  nhân tạo.

Việc bảo vệ tinh trùng, cũng như cải thiện chất lượng tinh trùng là sự phối hợp của nhiều chất: Carnitin, các chất chống oxy hóa, các nguyên tố vi lượng để bảo đảm tinh trùng được bảo vệ an toàn khỏi các tác nhân oxy hóa và có được mức năng lượng tối ưu để phát triển, trưởng thành, các chức năng được hoạt hóa một các hoàn chỉnh nhất giúp tinh trùng đủ khỏe để bơi trong môi trường âm đạo, tử cung và đến bến an toàn.

Tài liệu tham khảo

Chia sẻ: